Trường bắn lớn nhất trên Trái Đất Chiến_dịch_Sấm_Rền

Tên lửa SAM và Wild Weasel

Một khẩu đội Tên lửa SAM-2 của lực lượng phòng không miền Bắc Việt Nam chuẩn bị chiến đấu

Do Mỹ tăng cường các cuộc không kích vào đường Trường Sơn và miền Bắc Việt Nam, tháng 2/1965, chính phủ Liên Xô đồng ý viện trợ hệ thống tên lửa phòng không S-75 Dvina (NATO định danh là gọi là SAM-2) đời đầu cho Quân đội Nhân dân Việt Nam. Sĩ quan Việt Nam được gửi đến Liên Xô để học về hệ thống tên lửa phòng không SA-75 và 10 trung tâm huấn luyện của Lực lượng Phòng không Quốc gia (PVO-Strany) được xây dựng ở miền Bắc Việt Nam, trở thành nòng cốt của các trung đoàn tên lửa phòng không mới.

Đơn vị SA-75 Dvina đầu tiên triển khai ở Việt Nam là Trung đoàn 236 đặt ở Tây Bắc Hà Nội ven sông Đà. Vào ngày 24/7/1965, các tiểu đoàn 63 và 64 thuộc trung đoàn 236 đã bắn rơi một chiếc F-4C Phantom của Phi đội tiêm kích chiến thuật số 47 của Không Quân Mỹ (USAF) trên vùng trời Hà Tây - Hòa Bình, các mảnh văng từ tên lửa cũng làm hư hại 3 chiếc F-4 khác. Đó là chiến công đầu tiên của hệ thống phòng không SA-75 Dvina ở Việt Nam.

Hai ngày sau sự kiện, Tổng thống Mỹ ra lệnh ném bom tiêu diệt các hệ thống SAM-2 vừa bắn hạ máy bay Mỹ. Không quân Mỹ đã mở Chiến dịch Iron Hand (Bàn tay Sắt) để áp chế các hệ thống phòng không S-75 của Việt Nam. Nhận thấy được vùng chết của radar RSN-75 Fan Song A là không bắt được mục tiêu ở độ cao thấp, cuộc tấn công đầu tiên của chiến dịch Iron Hand diễn ra vào ngày 27/7/1965 (chiến dịch Spring High), với phi đội 54 chiếc tiêm kích bom F-105 Thunderchief bay ở độ cao thấp tấn công vào các trung đoàn S-75. Tuy nhiên, Việt Nam đã lường trước được điều này nên đã di chuyển các tiểu đoàn chiến đấu đến nơi khác, thay thế các vị trí cũ bằng các hệ thống tên lửa phòng không giả làm bằng tre, cót và triển khai hơn 120 pháo phòng không xung quanh khu vực ấy. Khi phi đội F-105 đến, chúng đã bị pháo phòng không đón đánh. Chỉ trong giờ đầu của trận chiến ngày 27-7-1965 trên vùng trời Sơn Tây, 6 chiếc F-105 bị bắn hạ cùng với 1 chiếc máy bay trinh sát RF-101 Voodoo.[54]

Việc Quân đội Nhân dân Việt Nam triển khai các tên lửa SAM đã buộc các phi công Mỹ phải thực hiện các lựa chọn khó khăn: hoặc tiếp cận các mục tiêu từ độ cao lớn (để tránh hỏa lực phòng không) và trở thành mồi cho SAM, hoặc bay thấp để tránh tên lửa và trở thành mục tiêu của các khẩu đội pháo phòng không tầm trung và tầm thấp.

Tên lửa SA75 của bộ đội phòng không Việt Nam đang đánh chặn một chiếc F-105 trên bầu trời miền Bắc

Sau khi 1 chiếc A-4 Skyhawk bị tên lửa phòng không S-75 bắn rơi vào ngày 11/8/1965, một cuộc tấn công tương tự của Hải Quân Mỹ với chiến thuật bay thấp được thực hiện, và Hải quân Mỹ đã mất 5 chiếc máy bay mà không một trận địa tên lửa phòng không nào bị hạ. Quân đội Mỹ đã thử một số cách khác như chiến dịch Left Hook, họ đã phóng máy bay không người lái BQM-34 Firebee để thu thập tín hiệu sóng của radar SRN-75 Fan Song A nhưng không thành công. Từ ngày 12/8 đến ngày 14/11/1965, hơn 338 phi vụ của chiến dịch Iron Hand được thực hiện như không thu được kết quả nào do sự cơ động, khả năng nguỵ trang xuất sắc của các tiểu đoàn SAM-2 Việt Nam với sự bảo vệ bởi các khẩu đội pháo phòng không được bố trí dày đặc.

Sau tổn thất nặng nề đầu tiên, tháng 2/1966, Mỹ phải ngừng gần 2 tháng hoạt động không kích miền Bắc, tận dụng thời gian để trang bị thêm cho máy bay các hệ thống tác chiến điện tử và phát triển chiến thuật mới. Đồng thời để các máy bay do thám không người lái (UAV), đầu tiên là loại BQM-34, trang bị thiết bị tình báo điện tử, thu thập thông tin cần thiết. Thành công lớn nhất vào thời điểm đó, theo Mỹ, là nhờ UAV Ryan 147E "Firebee", mà ngày 13/2/1966 bị tên lửa SAM tấn công song không hề hấn gì. Tháng 3/1966, các máy bay Mỹ lần đầu tiên trang bị tên lửa AGM-45 Shrike, được thiết kế để tấn công các hệ thống radar phòng không, và vào mùa hè các máy bay tác chiến điện tử EF-105F Wild Weasel (sau này gọi là F-105G) tham chiến tại Việt Nam.

Chiếc Republic F-105G thuộc Phi đội 333, Phi đoàn Tiêm kích Chiến thuật 355, tháng 8 năm 1968 tại Việt Nam.

Do chiến thuật được thay đổi và việc gây nhiễu radar được tăng cường, số máy bay bị SAM bắn hạ giảm theo thời gian. Tỷ lệ bắn trúng của tên lửa thấp dần do Mỹ áp dụng các biện pháp gây nhiễu, theo tuyên bố của Mỹ là ở mức 1/30 giảm xuống còn 1/50.[55], còn theo VNDCCH thì trung bình cần 2-3 quả tên lửa để tiêu diệt 1 máy bay giai đoạn đầu và 7-10 tên lửa trong giai đoạn cuối. Tuy nhiên, các con số này không nói lên nhiều về tính hiệu quả của Sấm Rền, do các khẩu đội SAM của Việt Nam không bao giờ thiếu tên lửa dự trữ, bất kể các nỗ lực của Mỹ nhằm ngăn chặn hệ thống hậu cần.

Bản chất của cuộc leo thang từng bước đã cho Hà Nội thời gian để thích nghi với tình hình. Đến năm 1967, Việt Nam đã thành lập khoảng 25 tiểu đoàn SA-2 (mỗi tiểu đoàn có 6 bệ phóng tên lửa) luân chuyển giữa khoảng 150 địa điểm.[56] Với sự hỗ trợ của Liên Xô, VNDCCH đã nhanh chóng tích hợp một hệ thống radar cảnh báo sớm gồm hơn 200 cơ sở che phủ toàn bộ không phận miền Bắc, theo dõi các đợt đánh phá của Mỹ, và rồi hợp đồng tác chiến giữa các tên lửa SAM, các khẩu đội pháo phòng không, và máy bay MiG để tấn công họ.[57]

Trong năm 1967, không quân Mỹ tiếp tục tổn thất lớn hơn năm 1966. Đã có 362 máy bay của Hoa Kỳ đã bị bắn rơi ở miền Bắc Việt Nam. Trong đó, Không quân 208 chiếc, Hải quân mất 142 và Thủy quân lục chiến mất 12 chiếc.[58]

Để sống sót trong khu vực phòng không ngày càng nguy hiểm, Mỹ đã phải áp dụng các chiến thuật mới hơn, chuyên biệt hơn. Trong các cuộc không kích quy mô lớn, được gọi là các gói hỏa lực (force package) của Không quân và các cuộc không kích Alpha (multi-carrier Alpha strike) của Hải quân, nhiều máy bay hỗ trợ được cử theo để bảo vệ các máy bay ném bom-chiến đấu. Dẫn đầu vào các vùng mục tiêu đánh phá là các phi vụ đặc biệt Bàn tay Sắt (Iron Hand) với nhiệm vụ đánh chặn hỏa lực phòng không. Các phi vụ này do các đội sát thủ F-105 Chồn Hoang (Wild Weasel) được trang bị các thiết bị điện tử tinh vi để phát hiện và định vị các chùm tia liên quan đến các radar điều khiển và việc dẫn đường cho tên lửa SAM.

Sân bay quân sự Đa Phúc (Nội Bài) bị ném bom trong giai đoạn 3 của Chiến dịch Sấm RềnMột chiếc F-4 của Không quân Hoa Kỳ bị trúng tên lửa SAM-2 của Việt Nam

Đội Chồn Hoang còn mang các thiết bị phản điện từ (electronic counter-measure) (ECM) để tự bảo vệ. Chúng hướng dẫn các cuộc đánh phá các trận địa phòng không và mang các tên lửa chống bức xạ (anti-radiation) AGM-45 Shrike - loại tên lửa lần ngược theo hướng bức xạ để tìm đường đánh vào các hệ thống radar của SAM. Tên lửa SA-2 có tầm bắn xa hơn Shrike, nhưng nếu Shrike được bắn ra khi tín hiệu radar đang ở trong không gian thì tên lửa Mỹ sẽ lần theo tín hiệu và phá hủy radar là nguồn của tín hiệu. Một trò chơi mèo đuổi chuột tinh vi đã xảy ra giữa các kĩ thuật viên điều khiển radar của VNDCCH và các phi công Chồn Hoang của Mỹ. Hải quân Mỹ cũng sử dụng máy bay trong một vai trò tương tự, nhưng nó không tạo ra các đơn vị chuyên biệt như đội Chồn Hoang để đánh phát hiện và chống SAM.

Tiếp theo là các máy bay mang bom được bảo vệ bởi các máy bay chiến đấu (Combat Air Patrol hoặc MiGCAP) và máy bay gây nhiễu điện tử để vô hiệu hóa radar đối phương. Việc ngụy trang nhóm máy bay được máy bay gây nhiễu chủ động EB-66A thực hiện ở khoảng cách từ 60–120 km. Các thiết bị gây nhiễu mới đã được vội vã triển khai để bảo vệ máy bay trước sự tấn công bằng tên lửa, nhưng chúng thường bị mất tác dụng do điều kiện thời tiết ở Đông Nam Á. Cùng tham gia các phi vụ còn có các máy bay tiếp dầu trên không KC-135 và các trực thăng cứu hộ, những máy bay này đến lượt mình lại được bảo vệ bởi các máy bay A-1.

Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, để chủ động tìm đánh gây cho địch bất ngờ, Bộ Tư lệnh tên lửa đã đề nghị Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân Việt Nam cho phép thực hiện chiến thuật "cơ động phục kích" trong việc sử dụng tên lửa phòng không SA-2 để đánh địch. Theo giáo trình của Liên Xô, tên lửa SA-2 sẽ bố trí ở các trận địa cố định thành thế liên hoàn (nếu thường xuyên di chuyển sẽ làm cho các khối vi điện tử hoạt động thiếu chính xác). Tuy nhiên, trong điều kiện ở Việt Nam, cách trí này có nhiều khuyết điểm (Việt Nam không có nhiều hệ thống SA-2 như Liên Xô để bố trí liên hoàn, nếu bố trí tên lửa ở các vị trí cố định thì dù có bắn rơi được một vài máy bay của địch, nhưng lập tức sẽ bị máy bay Mỹ dùng lực lượng áp đảo đánh hủy diệt).

Trong cả năm 1966, Bộ đội phòng không Việt Nam thành lập mới 4 trung đoàn tên lửa phòng không. Theo các nguồn số liệu Liên Xô, đến tháng 3/1967, các đơn vị tên lửa phòng không Việt Nam đã tiến hành 445 lần phóng tác chiến, tiêu hao 777 quả đạn tên lửa. Tổng cộng trong các lần phóng đó đã bắn rơi 223 máy bay, tính trung bình 3,48 quả đạn tên lửa/một máy bay Mỹ. Nguy cơ từ tên lửa buộc phi công Mỹ phải chuyển sang bay thấp, ở độ cao này tuy mối đe dọa từ tên lửa phòng không ít hơn nhưng nguy cơ bị pháo phòng không bắn hạ lại tăng lên nhiều. Theo các nguồn số liệu của Liên Xô thì đến tháng 3/1968, pháo phòng không Việt Nam đã bắn hạ 1.532 máy bay các loại của Mỹ[59]

Từ giữa năm 1966 tới cuối năm 1967, Tổng thống Johnson tiếp tục loại bỏ các mục tiêu nhạy cảm mà các tướng đề xuất, đồng thời cố gắng xoa dịu phe bồ câu trong Hạ viện và trong chính chính phủ của ông bằng các cắt giảm định kì và các đề xuất hòa bình nửa vời.[60] Cuối cùng, chuỗi sai lầm này đã không làm thỏa mãn một ai và không làm được gì để thay đổi dòng chảy của cuộc chiến.[61]

MiG và việc đánh chặn

Chiến dịch Sấm Rền đi đến giai đoạn cuối của sự phát triển của nó trong các năm 1967 và 1968. Mục đích chính yếu của nỗ lực Mỹ trong việc đánh phá các khu vực giao thông miền Bắc Việt Nam đã dần dần bị biến thành việc đánh chặn dòng hàng và quân chảy vào Nam và sự phá hủy các cơ sở hạ tầng của miền Bắc phục vụ các hoạt động quân sự.

Một chiếc MiG-17 đang đuổi theo một chiếc F-105

Tuy hỏa lực phòng không tiếp tục gây ra đa số thiệt hại về máy bay của Mỹ, các máy bay F-105 F-105 Thunderchief của Không quân và A-4 Skyhawk của Hải quân Mỹ ngày càng chạm trán nhiều hơn với SAM và MiG. Các phi công chiến đấu của VNDCCH cũng đã trở thành một vấn đề vì Mỹ không có thông tin radar tại vùng đồng bằng sông Hồng, điều này cho phép các máy bay MiG gây bất ngờ đối với lực lượng đánh phá. Máy bay trang bị hệ thống cảnh báo sớm gặp khó khăn khi phát hiện các máy bay tiêm kích ở độ cao thấp và khó có thể nhìn thấy các máy bay này bằng mắt.[62] MiG-21 được sử dụng để chặn đứng những nhóm máy bay xung kích F-105 Thunderchief rất hiệu quả, đặc biệt trong việc bắn hạ những máy bay Mỹ hay chí ít cũng bắt chúng phải giảm trọng tải bom mang trên mình.

Bộ chỉ huy Không quân và Hải quân Mỹ tin rằng loại tiêm kích F-4 Phantom hiện đại với vũ khí mạnh, radar hiện đại, tính năng tốc độ và tăng tốc cao cùng với những biện pháp chiến thuật mới sẽ đảm bảo cho F-4 Phantom chiếm ưu thế. Nhưng khi đối đầu với MiG-21 gọn nhẹ hơn của Việt Nam, F-4 bắt đầu chịu thất bại liên tiếp. Không quân Việt Nam đã đưa ra các chiến thuật nhằm khắc chế ưu thế của F-4 trong khi phát huy được lợi thế của MiG-21. MiG-21 của Việt Nam thường tấn công đối phương với tốc độ vượt âm, phóng tên lửa từ phía sau mục tiêu và nhanh chóng thoát khỏi sự truy đuổi. Người Mỹ đã khó đưa ra một giải pháp nào đó chống lại chiến thuật này, một chiến thuật đòi hỏi sự chuẩn bị tốt cho phi công và sĩ quan dẫn đường trên mặt đất ở sở chỉ huy. Không quân Nhân dân Việt Nam cũng khai thác tối đa sự phối hợp hoạt động đồng bộ của MiG-21 với MiG-17 trong không chiến. Những chiếc tiêm kích MiG-17 bay ở tầm thấp dưới 3.000m đã đẩy những chiếc F-4 và F-105 từ độ cao thấp lên độ cao trung bình khoảng 5.000 đến 6.000m, nơi những chiếc MiG-21 đang phục kích tấn công đối phương.[63]

Từ tháng 5 tới tháng 12/1966, trong các trận không chiến, Mỹ đã mất 47 máy bay mà chỉ hạ được 12 chiếc của Việt Nam. Đặc biệt, trong tháng 12 năm 1966, nhờ chiến thuật hiệu quả, các phi công Việt Nam đã bắn rơi 14 chiếc F-105 Thunderchief của Mỹ mà không chịu tổn thất nào[64]

Tuy F-105 đã có 27 chiến thắng trên không, các phi công Việt Nam cũng tuyên bố đã bắn hạ 40 chiếc F-105[65]. Trong trận đánh ngày 2 tháng 1 năm 1967, phi công Mỹ đã làm các phi công VNDCCH ngạc nhiên khi họ thực thi Chiến dịch Bolo. Dùng các tín hiệu radio, hướng tiếp cận, độ cao, và tốc độ thường dùng của các máy bay mang bom F-105, các máy bay F-4 đã lừa MiG-21 tưởng rằng đó là các con mồi ngon. Kết quả là 7 máy bay MiG bị bắn rơi trong vòng 12 phút khi vừa mới cất cánh[66] 1 phi công Việt Nam tử trận và 6 người khác kịp nhảy dù. Không quân Việt Nam đã quyết định dừng bay MiG-21 cho đến ngày 23-4-1967 nhằm rút kinh nghiệm, chỉ ra nguyên nhân, bài học và tìm ra phương án đối phó với các chiến thuật mới của không quân Mỹ, sẵn sàng cho các trận đánh tiếp theo. Trong nửa đầu năm 1967, không quân Việt Nam bắn rơi được 15 máy bay Mỹ. Tuy nhiên, các máy bay tiêm kích Việt Nam lại tăng hiệu quả của mình lên (kinh nghiệm chiến đấu có được, cũng như việc chuyển sang các loại máy bay cải tiến như MiG-21PF và MiG-17F trang bị tên lửa có điều khiển R-3s). Nửa đầu năm 1968, trong 40 trận không chiến các phi công Việt Nam đã tiêu diệt 25 máy bay của đối phương.

Cuối năm 1967, Mỹ thực hiện nỗ lực kéo dài và mạnh mẽ nhất để buộc VNDCCH phải chấp nhận đàm phán hòa bình theo điều kiện Mỹ đưa ra. Hầu như tất cả các mục tiêu trong danh sách của Hội đồng tham mưu liên quân đã được duyệt để tấn công, trong đó có cả các sân bay trước đó đã được coi là ngoài giới hạn.[67] Chỉ có khu trung tâm Hà Nội, Hải Phòng và vùng biên giới với Trung Quốc là vẫn bị cấm đánh phá. Nỗ lực chủ yếu dược thực hiện để cô lập các khu đô thị bằng cách đánh sập cầu và tấn công các hệ thống thông tin liên lạc. Các mục tiêu bị đánh phá còn có nhà máy gang thép Thái Nguyên, các nhà máy điện, các xưởng sửa chữa tàu biển và xe lửa, các kho tàng. Một lực lượng lớn máy bay MiG tham gia chiến đấu khi thủ đô Hà Nội bị đe dọa, tỉ lệ diệt theo Mỹ là 1 máy bay Mĩ cho 2 MiG.[67]. Tuy nhiên theo VNDCCH, tỉ lệ này là 1 đổi 1,8 nghiêng về phía họ. Trong năm 1968, MiG là nguyên nhân của 22% trong tổng số 184 máy bay Mĩ rơi trên miền Bắc (75 Không quân, 59 Hải quân, và 5 Thủy quân lục chiến.[68] Do kết quả này, các cuộc đánh phá các sân bay cuối cùng của VNDCCH, mà trước đây nằm ngoài phạm vi cho phép, đã được cho phép.

Chiếc MiG-21 số hiệu 4324 (do nhiều phi công khác nhau lái) đã bắn hạ 14 máy bay Mỹ từ tháng 1/1967 đến tháng 5/1969. 6 phi công lái chiếc MiG-21 này đã được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Tuy nhiên, các phi công Việt Nam đã thể hiện sự dũng cảm và sáng tạo của họ trong cả hai phương diện chiến thuật và kỹ thuật, làm kinh ngạc đối phương. Nhà nghiên cứu lịch sử chiến tranh Vladimir Ilyin đã có bài viết tổng kết về cuộc đối đầu giữa Không quân Nhân dân Việt Nam và Không quân Mỹ trên bầu trời miền Bắc Việt Nam, theo đó từ tháng 4/1965 đến tháng 11/1968, trên bầu trời Việt Nam đã diễn ra 268 trận không chiến, trong các trận đó đã có 244 máy bay Mỹ bị bắn rơi, đổi lại 85 máy bay Việt Nam. Trong số đó có 27 F-4 và 20 MiG-21[2].

Trong suốt các cuộc không chiến giữa không quân Việt Nam với quân đội Mỹ, phía Việt Nam có 16 phi công đạt đẳng cấp "Ách" (tức đã bắn hạ được từ 5 máy bay đối phương trở lên), gồm 14 phi công MiG-21 và 2 phi công lái MiG-17. Trong đó người cao nhất là phi công MiG-21 Nguyễn Văn Cốc đã bắn hạ 9 máy bay Mỹ. Một phi công huyền thoại khác là Nguyễn Văn Bảy, còn gọi là "Bảy A", phi công MiG-17, đã bắn hạ 7 máy bay Mỹ (cao nhất trong các phi công lái MiG-17).

Bất kể những nỗ lực ngăn chặn cao nhất của Sấm Rền, Quân Giải phóng miền Nam và Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn thực hiện được cuộc tổng tấn công lớn nhất kể từ đầu cuộc chiến, Sự kiện Tết Mậu Thân, trên khắp Nam Việt Nam từ ngày 30 tháng 1 năm 1968. Cuộc tổng tấn công này kết thúc như là một bế tắc chiến thuật đối với VNDCCH và MTDTGPMN, nhưng nó lại trở thành một thành công chiến lược khi ảnh hưởng ngược lại đối với dư luận quần chúng Mỹ, dư luận này đến lượt nó lại gây ảnh hưởng tới chiến lược chiến tranh của Washington.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_dịch_Sấm_Rền http://library2.usask.ca/vietnam/index.php?state=b... http://acepilots.com/vietnam/viet_aces.html http://aupress.au.af.mil/catalog/books/Tilford_B40... http://aupress.au.af.mil/fairchild_papers/Head/hea... http://www.au.af.mil/au/awc/awcgate/readings/drew2... http://www.airforcehistory.hq.af.mil/Publications/... http://www.airpower.maxwell.af.mil/airchronicles/a... http://handle.dtic.mil/100.2/ADA425601 http://stinet.dtic.mil/oai/oai?&verb=getRecord&met... http://www.history.navy.mil/seairland/index.html